Năm 1962, tốt nghiệp Phổ thông xong tôi thi Đại học. Ý thức của tôi về ngành nghề và sự nghiệp lúc này còn rất mơ hồ. Năm đó Đoàn thanh niên khuyến khích khá quyết liệt để mọi người thi vào các trường những năm trước ít người vào so với một số trường “thời thịnh” khác. Bấy giờ chưa có từ ngữ hay khái niệm gì về hướng nghiệp, mà chỉ biết đến sự động viên từ quan hệ giữa yêu cầu đất nước và trách nhiệm người thanh niên đang ngồi ghế nhà trường. Đại học Sư phạm và Đại học Nông Lâm được Đoàn trường khuyến khích chúng tôi thi vào. Trong hoàn cảnh đó tôi ngoan ngoãn đăng ký thi vào Đại học Nông Lâm. Khi đó tôi sợ ngành sư phạm, cái ngành tôi cũng biết là cao quý và quan trọng vì đào tạo ra các thầy, các cô. Ở tuổi mới chớm lớn, đứng trước đông người tôi cứ đỏ mặt, tim đập dồn và quên hết những gì đã học, mong gì truyền đạt kiến thức đến người khác! Khi khám sức khỏe để thi Đại học (lúc này tôi cao đến 1m67 nhưng nặng chỉ 47 kg), ông bác sĩ hỏi tôi: vào sư phạm nhé?. Tôi chối nguây nguẩy.
Thế là cuối tháng 8 năm đó tôi khăn gói đến Đaị học Nông Lâm ở Trâu Quỳ (Gia Lâm, Hà Nội) để thi. Tôi xin thi vào ngành Cơ khí nông nghiệp, có lẽ lý do chỉ là vì Chiếc máy cày theo tôi là một hình tượng thú vị. Học lực của tôi lúc đó cũng xoàng, thi lại khó, có tỷ lệ cả trường là 1 chọi 8. Tôi không đủ điểm để được lấy vào ngành cơ khí, một ngành những năm này đông người thi vào lắm. Các anh chị đang làm việc tại Đại học Nông nghiệp gợi ý tôi vào học khoa Thủy sản, vì tôi đủ điểm vào đó (chắc ngành mới còn chưa nhiều người biết chăng?). Sau khi xin ý kiến cha mẹ, tôi ưng và chọn học ngành Chế biến ở khoa này. Có thể coi đây là thời điểm tôi chính thức bước vào ngành Thủy sản.
Vào Đại học tôi khá dần lên cả về hoc lực lẫn sức khỏe. Ngay năm đầu tôi đã học trội hẳn lên. Những năm tiếp theo cho đến cuối khóa cũng vậy. Lúc đó cho điểm theo hệ Liên Xô (điểm 5/5 là cao nhất). Trong 4 năm học với 8 học kỳ, thi 29 môn thì tôi đã có 27 điểm 5 và chỉ có 2 điểm 4 (môn Điện kỹ thuật và môn Hóa phân tích, hai môn này tôi làm thực hành không tốt lắm). Thế là khá hài lòng rồi. Học được, hoạt bát, lại sống hòa đồng nên tôi tham gia công tác Liên chi Đoàn khoa Thủy sản từ năm thứ hai, lại gánh vác thêm những việc khác nữa. Thời kỳ "Ba sẵn sàng" Đoàn có vai trò quan trọng trong sinh hoạt Nhà trường, Đoàn Thanh niên Lao động với tổ chức Thanh niên cờ đỏ cũng có uy tín trong mọi sinh hoạt và trật tự từ ký túc xá đến phòng học và mọi nơi công cộng khác trong khuôn viên trường. Năm học thứ tư (cuối năm 1965), do thành tích nổi bật nên tôi nằm trong số ít người của cả trường được Trung ương Đoàn tặng huy hiệu Nguyễn Văn Trỗi. Khoa thủy sản chỉ có tôi và anh Diệp Sơn học khóa sau được phần thưởng vinh dự này năm đầu, ngay sau khi anh Trỗi hy sinh. Tôi cũng được giới thiệu Cảm tình Đảng, rồi năm 1965 là đối tượng kết nạp.
Câu chuyện thứ nhất –Lần đầu gặp anh Trịnh
Chuyện vào mùa đông năm 1963, khi tôi mới học sang năm thứ hai Trường Đại học Nông Lâm được ít tháng. Hôm ấy đến phiên mấy anh con trai lớp tôi trực bảo vệ trường ban đêm. Tôi nằm trong tốp trực đó. Học ôn thi suốt ngày, trời lạnh mà đêm đi trực bụng đói nên chúng tôi mua khoai ngoài nông trường để lúc trực luộc ăn. Trường rộng lắm, lại phải đi tuần đêm khắp vườn cam sau trường mỏi cả chân, lại bị cái đói và cái rét hành hạ nên tốp chúng tôi phân nhau đi theo ca. Ca tôi đi sau và được phân công việc luộc khoai. Trời rét ai cũng thích ngồi quanh bếp lửa, tôi cũng thích vậy. Nồi khoai đang sôi lục bục thì trong ánh lửa leo lắt tôi nhận ra tốp giáo viên khoa thủy sản đi trực qua. Thấy chúng tôi các anh dừng lại, hơ tay một lát rồi với một giọng Miền Nam (lúc đó tôi chưa phân biệt được giọng các tỉnh Miền Trung nên gọi chung là Miền Nam) một anh hỏi tôi: “ Em người Hà Nội hả?”. Tôi trả lời: “ Em không phải người Hà Nội nhưng sống ở Hà Nội đã lâu, sao anh hỏi vậy?”. Anh nói: “Chỉ người ở Hà Nội mới đun củi cách ni”. Tôi nhìn vào bếp, chỉ có ba thanh củi kê trên vài cái gộc nhỏ, củi nhóm lên, gặp đủ không khí cháy thanh cảnh, hiền hòa, đượm than hồng từ mấy cái gộc nhỏ. Nơi cái trường Nông Lâm này không thiếu củi hay mọi thứ gọi là cái đun, nhưng quen như nấu cơm ở nhà, tôi đun củi cách đó, và tự nhiên tôi cũng cho mình là người Hà Nội, người thị thành thời đó. Anh em trò chuyện với nhau mấy phút nữa, cũng tranh thủ hơ tay rồi các anh đứng dậy đi tuần tiếp đến mờ sáng.
Tôi gặp anh Trịnh lần đầu là như vậy đấy. Anh cũng vừa ra trường được mấy tháng. Tôi vẫn nhớ cái giọng Quảng Nam của anh lúc ấy không khác sau này chút nào. Tính tình anh cũng không khác, hay nghĩ rộng ra, cái chất con người anh vẫn đáng mến vậy từ thưở nào: Vui vẻ, gần gũi thế. Đến giờ tôi vẫn nhớ buổi đầu ấy gặp anh, và chắc anh cũng thấy cái đức sống “vừa đủ” của tôi, suy ra một chút, có biết trước biết sau và chừng mực nhát định lầ biết quy hoạch cho công việc.Từ đó gặp nhau sau này khi tôi là sinh viên, anh quý tôi, rồi anh tin tôi trong công việc của Đoàn Thanh niên. Còn tôi, quý trọng anh và luôn hàm ơn anh với tư cách người đi trước sẵn sàng dìu dắt mình.
Có lẽ cái tinh thần ban đầu đó cứ lặp đi lặp lại qua những sự kiện khác nhau trong thời gian nhiều chục năm sau này. Tinh thần đó có thể tóm tắt trong mấy chữ: Tinh tế khi nhận biết con người, tin tưởng và tôn trọng nhau, lúc nào cũng ân cần và gắn bó trách nhiệm, khi tác nghiệp cũng như cách cư xử, trong mọi hoàn cảnh và ở mọi cương vị.
Sau lần gặp nhau ban đầu như vậy, là sinh viên năm thứ hai, tôi đã vào Ban chấp hành Liên chi đoàn khoa Thủy sản mà anh là bí thư, sau đó ít lâu tôi vào thường vụ, phụ trách mảng chuyên môn của Liên chi đoàn. Tôi ở trong thường vụ, anh Hoàng Quang Trung mới ở Liên Xô về, giáo viên cơ khí tàu thuyền là ủy viên Ban chấp hành cùng tôi đảm trách công việc này, một công việc quá lớn với tôi khi còn là sinh viên. Như vậy, với sự dìu dắt của anh Trịnh, tôi bắt đầu học làm cán bộ, dù là cán bộ Đoàn, biết giao tiếp, biết thêm kỹ năng công tác, biết đến trách nhiệm ngoài bản thân và nhiều thứ khác nữa.
Năm 1966 tôi tốt nghiệp và ở lại Trường, lúc đó là Trường Thủy sản. Thời gian này anh Trịnh ở Trung Quốc mới về, vừa giảng dạy vừa làm Bí thư Đoàn trường. Tôi trong Thường vụ, cùng anh Nguyễn Trọng Bình – phó bí thư gánh trách nhiệm về Đoàn cùng anh. Anh Trọng Bình tính cẩn trọng lo công tác tổ chức và thường trực, còn tôi, anh giao phong trào Đoàn trong dạy và học, một phần đảm nhiệm thêm về tuyên huấn. Anh biết tư duy và khả năng viết của tôi nên các báo cáo Đại hội, các bài phát biểu anh tin và giao tôi viết, có khi giao trình bày. Thế lại làm tôi trau giồi năng lực và bản lĩnh cán bộ của mình tốt hơn. Cán bộ Đoàn các thế hệ tại Trường Thủy sản thì nhiều, tuy nhiên bây giờ người ta nói đến Đoàn trường là hay nhắc tới thế hệ lúc đó, với các cái tên: anh Trịnh, anh Trọng Bình, tôi, anh Phạm Ngọc Tảo, anh Phan Lương Tâm rồi anh Nguyễn Hưng Điền. Những người này gắn với thế hệ trẻ của trường những thời đáng nhớ, nhưng cũng được nhắc đến nhiều do nhiệt huyết và những cá tính khó quên.
Có thể nói: Học tập hơn 4 năm đại học giúp tôi “lột xác” thành một người khác: sức học tốt, kết quả loại ưu, hoạt bát, ham việc, không ngại khó, không nề hà việc gì, và điều quan trọng là cái bản lĩnh thì lớn lên rỗ rệt. Tôi bắt đầu có ý thức về nghề nghiệp, về sự nghiệp sau này gắn với lý tưởng của Đoàn viên lúc đó, gắn với sự thích thú về những gì tôi đã học và biết về ngành thủy sản. Thời gian này tôi không đỏ mặt trước đám đông nữa, nhưng lại có cái đỏ mặt bất chợt khác của người đang tuổi ấy...
Nói tóm lại, tôi đã sẵn sàng vào đời, sẵn sàng dấn thân (cách nói bây giờ) và sẵn sàng cống hiến.
Tình cờ, Lễ công bố tốt nghiệp năm tôi ra trường (1966) lại rơi đúng kỷ niệm sinh nhật lần thứ 22 của tôi. Sau lễ tốt nghiệp tôi nghỉ vỏn vẹn nửa tháng, nhận quyết định rồi bắt đầu đi làm từ ngày 01 tháng 12 năm 1996 tại Trường Thủy sản (Trường thành lập tháng 8 năm 1966 với sự tách khoa Thủy sản ra khỏi trường Đại học Nông nghiệp, tên gọi ban đầu là Trường Thủy sản, vì trong năm đầu ngoài hệ Đại học còn có hệ Trung Cấp đóng tít gần Hải Phòng). Tốt nghiệp rồi, tôi chỉ háo hức đi làm và cống hiến mà không ngờ rằng đúng 30 năm sau ( tháng 12 năm 1996) mình lại ngồi ở cái ghế Bộ trưởng và cùng đồng chí, đồng nghiệp vận hành ngành Thủy sản của đất nước này.
Cho đến lúc về nghỉ tôi có tổng cộng 41 năm công tác. Tôi không kể tỉ mỉ năm nào làm gì, ở đâu vì các chi tiết này đã có trong các loại Trích ngang lý lịch của tôi rồi. Nói gọn lại là, trong 41 năm đó tôi có 18 năm công tác tại Trường Đại học Thủy sản (từ 1966 đến 1984) và 23 năm ở Bộ (từ 1984 đến lúc hưu, cũng là lúc nhập Bộ).
Lúc ở trường, tôi có 4 năm đi Nghiên cứu sinh (1977- 1981), lúc ở Bộ tôi có một năm đi thực tập sinh cao cấp (1989). Cả hai lần đều ở Bulgaria, Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Plovdiv(VHVP). Tình cảm của tôi với đất nước và con người ở đây thật sâu đậm, sâu đậm đến mức khi nẩy ra một từ gì trong đầu thì tiếng Việt và tiếng Bun "bắn ra"" đầu tiên, trong khi tôi học tiếng Nga, tiếng Anh và cả tiếng Trung Quốc khá sớm và cũng bài bản. Tôi ơn và nhớ nhiều đến thầy G. A. Kimenov (ngày 20/11/2018 vừa rồi tôi có viết một bài về thầy đăng trên báo Thời Đại) và coi các đồng nghiệp ở bộ môn Nhiệt kỹ thuật nơi đó như tập thể của mình, trong đó có Pepa Stefanova, nhân viên kĩ thuật của bộ môn nhưng giành rất nhiều thời gian để giúp tôi trong công việc luận án và phòng thí nghiệm. Giáo sư G. Valtchev, bảo vệ tiến sĩ sau tôi 6 tháng về lĩnh vực nhiên liệu (về lò đốt tầng sôi cho than cám) cũng do thầy G. Kimenov hướng dẫn. Giáo sư G. Valchev nhiều năm gần đây làm hiệu trưởng VHVP, năm 2010 có sang thăm Việt Nam. Tôi vẫn nhớ hết tên của các thành viên trong bộ môn Nhiệt lúc đó. Một thời điểm đáng nhớ: Tháng 9 năm 2006 tôi có quay lại trường, với tư cách Bộ trưởng thăm đất nước Hoa hồng. Trong chuyến thăm này, tôi nhận Bằng Doctor Honoris Causa của trường do Hiệu trưởng G.Valtchev trao, có sự tham gia của lãnh đạo các Bộ giáo dục, Nông nghiệp nước bạn, thị trưởng thành phố Plovdiv và Đại sứ Việt Nam tại Bun lúc đó Phạm Quốc Bảo.
Họp thường vụ đoàn trường tháng 3 năm 1970
Bây giờ tôi quay lại nói về những năm tháng công tác ở trường Đại học Thủy sản Nha Trang.
Lúc mới tách ra từ Đại học Nông nghiệp để thành trường (tháng 8 măm 1966), bộ khung cán bộ và đội ngũ giáo viên của trường Thủy sản còn thiếu lắm, nhân sự nhà trường sơ sài chẳng khác nào những dãy nhà tạm bằng tranh, tre, giấy dầu lúc bấy giờ. Ngay "ký túc xá" có nhiều chỗ còn phải dựa vào nhà dân. Cảnh sơ tán lại làm đậm thêm tính thô sơ, tạm bợ của mọi chuyện.
Gần 50 năm rồi, tôi vẫn nhớ như in những ngày đầu làm việc ở trường. Do nhân sự và giáo viên thưa thớt, tôi được phân hai việc: Dạy toán giải tích cho khoa Nuôi (khóa 8 và 9), cho các lớp chuyên tu, hàm thụ; đồng thời công tác tại phòng Giáo vụ, trong khi vẫn đảm trách thêm công tác Đoàn trường nữa. Anh Phan Thế Phương làm trưởng phòng Giáo vụ khoa học của tôi lúc đó. Sau này, anh Phương mất năm 1992 khi đang làm giám đốc Thủy sản Tỉnh Thừa Thiên Huế, đến giờ tôi vẫn không quên người anh ngay thẳng, trách nhiệm và tốt bụng này khi ở trường, làm thủ trưởng của mình (*). Năm đầu mới tách trường, dạy toán chỉ có anh Dương Văn Thanh, nằm trong biên chế tổ bộ môn toán lý mà anh Trần Văn Minh làm tổ trưởng. Anh Thanh tốt nghiệp Đại học Tổng hợp toán về đảm nhiệm dạy cho các lớp Cơ khí, khai thác, hàng hải. Tôi và Phạm Thái Hoạt là thầy Toán "tăng cường" (anh Hoạt tốt nghiệp khoa máy Đại học Bách khoa về, dạy toán các lớp chế biến, còn tôi – dạy toán khối nuôi, các lớp chuyên tu, hàm thụ). Nói thêm là: Châu, vợ tôi, học Nuôi hải sản khóa 8 nằm trong lớp học sinh đầu tiên tôi "hành nghề"dạy toán và tôi để mắt đến “vợ tương lai” của mình từ đó (1967).
Chiến tranh phá hoại và sự thiếu thốn đã dắt trường đi khắp nơi. Địa điểm đăng ký hộ khẩu là 48 Hàng Buồm, Hà Nội nhưng chúng tôi không biết mặt mũi cái nhà số 48 ấy. Chỉ biết nó là một căn nhà của Tổng cục Thủy sản, buồng nào cũng có người Tổng cục ở rồi. Đó chỉ là nơi để chúng tôi- cả giáo viên lẫn sinh viên của trường đăng ký hộ khẩu, nhận tiêu chuẩn lương thực, lĩnh tem phiếu thực phẩm và công nghệ phẩm, có sổ căng tin... và đủ mọi loại tiêu chuẩn thời bao cấp bấy giờ. Chứng minh nhân dân tôi làm ở Chợ Đường Cái, Hưng Yên năm 1971 vẫn còn ghi Địa chỉ thường trú là 48 Hàng Buồm. Có thể nói: thầy, trò trường Đại học Thủy sản những năm này, ai không có nơi ăn chốn ở tại thủ đô đều “thường trú” tại 48 Hàng Buồm, Hà Nội!
Câu chuyện thứ hai: Môn Hóa công và sự kết nối chuyên môn
Dạy toán là “nghề tay trái” của tôi lúc trường thiếu thầy. Cuối năm 1967, sau khi một loạt 4 thầy mới tốt nghiệp Đại học Tổng hợp về trường nhận công tác ( Lê Đức Huy, Nguyễn Huy, Hà Như Ngọc và Nguyễn Đăng Bảo) tôi mới rời bỏ môn toán trở về làm nhiều hơn cho Phòng Giáo vụ khoa học, đồng thời chuẩn bị giáo trình bắt tay vào dạy môn Quá trình và Thiết bị công nghệ hóa học (còn gọi là môn Hóa công) từ năm 1968. Có thể nói tôi là người của trường đầu tiên dạy môn Hóa công này, vì từ khi có đào tạo ngành chế biến thủy sản, thầy dạy hóa công đều được mời từ Đại học Bách khoa Hà Nội (thầy Thảo, thầy Sâm...) sang giảng. Với môn Hóa công này, sau tôi đi chuyên sâu thêm để trở thành "cốt cán", đó cũng là chuyên môn chính tôi thi để được chọn nghiên cứu sinh đi nước ngoài. Chuyên môn “Quá trình và Thiết bị” cũng là xuất phát điểm để tôi thực hiện các đề tài nghiên cứu sau Đại học những năm tiếp theo. Sau khi đi nghiên cứu sinh về, tôi còn tham gia các Hội đồng thi tuyển và bổ túc nội dung học thi cũng như hướng dẫn đề cương làm đề tài cho một số giáo viên môn này của khoa Hóa Đại học Bách khoa Hà Nội. Anh Nguyễn Trọng Khuông, trưởng bộ môn Hóa Công, Đại học Bách Khoa Hà Nội lúc đó mời tôi tham gia các công việc trên và chúng tôi làm việc với nhau tâm đầu ý hợp.
Tôi đã nói về thời điểm thôi dạy toán. Việc ở phòng giáo vụ tôi làm đến bao giờ? Cũng còn khá lâu sau đó, mãi đến khi tôi thi đỗ Nghiên cứu sinh, đi học ngoại ngữ, bàn giao lại công việc cho người khác (Anh Dướng) mới thôi (**). Đó là đầu tháng 9 năm 1976, sau khi chấm thi xong tuyển sinh khóa 17. Như vậy tôi đã làm việc ở phòng giáo vụ nhà trường suýt soát 10 năm, đi qua thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Miền Bắc ác liệt nhất.
Có mấy điều thú vị khi tôi làm việc ở phòng Giáo vụ:
Anh Phương trưởng phòng quý tôi, tin tưởng giao việc cho tôi. Ở phòng giáo vụ, anh Phương với tôi có nhiều kỷ niệm lắm nhưng không có điều kiện kể trong bài viết này. Mãi đến khi anh Phương chuyển đi làm hiệu phó trường Trung cấp thủy sản Hải Phòng năm 1974 vẫn còn mời tôi về dạy ở đó môn Hóa công cho lớp trung cấp ở khu Bãi cát Hải phòng.
Năm học 1969-1970 Nhà nước và Bộ Đại học, với bác Bửu (Tạ Quang Bửu) làm Bộ trưởng, có chủ trương nối lại và đổi mới việc thi Đại học. Liên tục nhiều năm tôi làm thư ký hội đồng thi tuyển sinh Nhà trường. Công việc cũng nhiều, rải rác trong năm từ tháng 4 đến tháng 9: tổ chức đi coi thi mỗi năm một tỉnh xa, Tổ chức chấm thi tại trường và thực hiện mọi liên lạc, kết nối với Bộ Đại học và THCN thông qua vụ Đại học, tổng hợp kết quả và tham mưu xét tuyển, thảo và trình nhà trường báo cáo lên Bộ Đại học, phúc tra và nhiều việc khác nữa. Cùng với anh Trần Văn Minh chúng tôi quán xuyến mọi công việc coi thi và chấm thi. Lúc này anh Trần Văn Minh đã về phòng giáo vụ. Một người ngăn nắp, khoa học lại hơn tôi nhiều tuổi (hiện tại anh Minh đã 93 tuổi và đang sống tại Chí Linh, Hải Dương), anh Minh ân cần giúp, thậm chí hướng dẫn tôi mọi việc để làm tốt nhiệm vụ của mình. Nhờ làm tốt việc tổ chức thi, tôi được Trường bầu là chiến sĩ thi đua năm 1970, ngay sau lần tổ chức thi đầu tiên.
Câu chuyện thứ ba: Vào Nha Trang và chuẩn bị đưa trường vào đó
Năm 1975, sau khi Miền Nam được giải phóng, vì đang công tác ở phòng Giáo vụ nên anh Trịnh (lúc bấy giờ là quyền hiệu trưởng Trường Đại học Thủy sản) đã cử tôi vào Nha Trang tìm trụ sở để di chuyển trường vào. Chúng tôi đi trên xe Uat với anh Vũ Song, Tổng cục Phó Tổng cục Thủy sản vào hạ tuần tháng 11/1975. Đoàn đi có tôi ở trường, cùng anh Kim Anh và anh Bùi Văn Thưởng ở phòng Đào tạo, vụ tổ chức cán bộ đào tạo của Tổng cục Thủy sản. Đồi La Sale ở Nha Trang đẹp lạ, đến là chúng tôi thích rồi, ông thầy Thọ - người có công xây dựng trường, một người có uy tín và là sư huynh trưởng ở đó đồng ý giao cả dinh cơ này ngay khi chúng tôi ngỏ ý. Chúng tôi vào Thành phố Hồ Chí Minh làm việc với cơ quan Giáo dục ta ở Miền Nam (số 3 Công trường quốc tế) và về cơ quan Tổng cục Thủy sản ở số 4 đường Đồng Khởi để xin sự đồng ý của ông Tổng cục trưởng Hoàng Hữu Nhân. Vào ở Sài Gòn ít ngày, tôi cảm thấy ngợp, nhưng không đủ thời gian kể tỉ mỉ ở đây được. Từ Sài Gòn, chúng tôi ra lại Nha Trang để hoàn tất các thủ tục ở đây, rồi một mình tôi ra Đà Nẵng gặp thường trực Ban Đại diện Đảng và chính phủ ở Miền Trung để nhận sự đồngý. Người tôi gặp là chú Hồ Dưỡng, thường trực cơ quan đại diện. Chú đi B từ báo Nhân Dân những năm sáu mươi nên tôi quen và chú giúp, nên thủ tục ở đây làm nhanh. Làm xong tôi đáp liên vận về Hà Nội, sau hai ngày ra đến nơi và bàn giao ngay giấy tờ về kết quả chuyến đi cho trường và để anh Trịnh phân công mọi người làm tiếp. Tôi về đến Hà Nội cũng là hạ tuần tháng 12/1975. Cơn bão số 5 Năm 1977 làm cơ sở tranh tre nứa lá của Trường ở Thôn An Toàn, Xã Hòa Nghĩa, gần Đồ Sơn, Hải Phòng sập tan hoang. Cũng năm đó trường chuyển gần như hoàn toàn vào Nha Trang, nơi chúng tôi chọn. Thật thú vị!
Nhận bằng tiến sĩ khoa học danh dự của Đại học Tp Plovdiv
Cũng một chút thú vị trong chuyến công tác NhaTrang kỳ đó: Đoàn chúng tôi được bố trí tiếp xúc và làm việc với Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải Miền Trung. Trụ sở chính của trường tọa lạc tại một ngôi biệt thự song lập trên đường Biệt Thự ( tên lúc đó thì phải), ở đây tôi biết lần đầu cơ cấu chuyên môn, phương thức học, rèn chuyên môn và nếp sinh hoạt một trường chuyên nghiệp ở thành phố mới giải phóng này. Đoàn chúng tôi nhận được sự thiện cảm khá tốt và sự ân cần khi tiếp xúc Ban Điều hành nhà trường lúc đó với một số chuyên gia khá nổi tiếng tham gia. Cố vấn Ban điều hành là học giả Cung Giũ Nguyên nổi tiếng ở Miền Nam trước giải phóng. Anh em giáo viên trường này tranh thủ lúc có thời gian, lái xe đưa chúng tôi đi thăm thành phố trong năm vừa được giải phóng. Thật vui và thân thiện vì cùng ngành chuyên môn. Đây cũng là lần tiếp cận đầu tiên của tôi với giáo dục đại học phía Nam trước giải phóng. Sau đó vài ngày, khi vào Sài gòn, trong khi chờ lãnh đạo Tổng cục ký các giấy tờ, tôi tranh thủ đến thăm trường Đại học Nông Lâm Súc, làm việc với Giáo sư Ngô Bá Thành, chủ nhiệm khoa ngư nghiệp của trường. Cuộc gặp này cũng cho tôi một số hiểu biết về thủy sản phía nam, cách đào tạo. Không những thế, cả những ấn tượng tốt đẹp về vị giáo sư đáng kính này. Khoảng mười năm sau - giữa những năm 1980, tôi còn có điều kiện làm việc chuyên môn với ông một số lần.
Tôi đi thi Nghiên cứu sinh năm 1976. Lúc đó là giữa năm 1976, khi nước ta thống nhất với Quốc hiệu là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cũng tháng 6 năm đó giữa tiết trời nóng nực, tôi đi thi và đỗ ngay lần đầu (Tôi nhớ rằng, môn toán A thi năm ấy mà thầy Nguyễn Đình Trí Đại học Bách Khoa cho ôn và ra đề, cả nước hơn 300 người thi chỉ có hơn 60 người đạt điểm từ trung bình trở lên, tôi nằm trong số 60 này). Do “rụng” môn toán, 13 người khác mà về chuyên môn tôi rất hâm mộ được Tổng cục Thủy sản cử đi thi đều không đỗ, một số thi lại vào năm sau. Cũng phải nói thêm rằng, đi công tác Miền Nam ra vào cuối tháng 12/1975, tôi còn “nợ” hơn 60 giờ giảng môn Hóa công, cho khóa 14 thì phải, xong rồi mới gia nhập đội quân ôn thi của cả nước. Tôi chậm ôn mất 3 tháng, nhỡ mấy kỳ phụ đạo, nhưng may mà ổn và thi đỗ. Coi như từ đó tôi chia tay mãi mãi với phòng giáo vụ Nhà trường. Đoạn về làm việc lại ở Trường sau khi bảo vệ luận án ở Bulgaria tôi không ở phòng này nữa mà về làm phó chủ nhiệm khoa và sinh hoạt với giáo viên khoa Chế biến. Đầu năm 1984, với sự giới thiệu của anh Nguyễn Thanh- chủ nhiệm khoa chế biến, và anh Nguyễn Hưng Điền – phó chủ nhiệm khoa, tôi được kết nạp Đảng ( sau 19 năm đối tượng) và ít lâu sau cùng một số anh em khác rời trường ra làm việc ở Bộ Thủy sản, vụ Khoa học kỹ thuật. Lúc này, Trường cũng được bàn giao từ Bộ Thủy sản sang Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
Như vậy tổng cộng 18 năm tôi công tác và thuộc biên chế ở Trường.
Làm việc ở trường cả thảy 18 năm ( kể cả 4 năm đi nghiên cứu sinh), bây giờ nhìn lại mới thấy rằng, khi ra Hà Nội tôi vẫn chưa thoát được cái vỏ bọc của một cậu học trò về mọi quan hệ cũng như cá tính. Tôi vẫn ngây thơ như thuở nào vào trường, chỉ khác là được trang bị kiến thức và một số kinh nghiệm để làm việc. Bản lĩnh cũng khá hơn nhưng kỹ năng sống còn quá nghèo nàn. Chính vì vậy mà làm việc ở Bộ những năm đầu tôi còn bỡ ngỡ lắm. Tuy nhiên, điều quan trọng là sự trong sáng, trách nhiệm với công việc và quan hệ dễ hòa đồng, những thứ tôi rèn luyện và tích lũy từ ghế Nhà trường đến bục giảng đã giúp tôi hoàn thiện tiếp bản thân, nâng dần kỹ năng sống, cải thiện phương pháp làm việc, nhất là các công việc hành chính ở một cơ quan Bộ để ngày môt đảm đương tốt hơn nhiệm vụ được giao sau này.
Câu chuyện thứ tư: Ngã rẽ và hai lần lựa chọn
- Lần thứ nhất:
Năm 1981, sau khi đi nghiên cứu sinh và bảo vệ, nhận bằng phó tiến sĩ, tôi về nước. Khi chưa về đến Việt Nam tôi đã được Viện Thiết kế máy và thiết bị hóa chất (đóng tại 25b Cát Linh, Hà Nội) xin với nhiều điều kiện ưu ái. Trường Đại học Thủy sản thời gian này đóng ở Nha Trang nên tôi không muốn xa nhà vì cha mẹ già, con nhỏ. Tôi cũng ưng về nơi mới này để thử sức về chuyên môn của mình, anh Trịnh, lúc này đã là Bộ trưởng, gặp tôi vừa khuyên, vừa thuyết phục: “Ngọc ơi, về trường xa nhà ít lâu nhưng có anh có em chắp cánh rồi mọi việc sẽ tốt hơn, nơi đó phải làm từ đầu mà tuổi Ngọc cũng đã lớn. Vài năm ở trường đã rồi về.” Tôi nghe anh, đắn đo rồi trả lại quyết định phân công cho tổ chức và khoác ba lô vào trường. Chỉ nghĩ thương anh Nguyễn Khuê, Viện trưởng viện thiết kế này mất nửa năm cùng anh Lê Phú Tá ở khoa Hóa Đại học Bách Khoa “rình” để xin tôi, nhưng rồi tôi cũng quyết “dứt áo”đeo ba lô vào Nha Trang, vào Trường Đại học thủy sản làm việc. Hơn hai năm sau tôi về Bộ công tác. Lúc này tôi đã khá hội đủ những phẩm chất, cộng với những điều kiện về bằng cấp và đã có chút ít kinh nghiệm công tác cần thiết cho công việc chuyên môn và quản lý sau này. Tôi hiểu hai chữ chắp cánh của anh em gắn bó mà anh Trịnh đã nói.
- Lần thứ hai:
Một năm tu nghiệp sau phó tiến sĩ. Hướng nghiên cứu làm cấp 2 thì rộng nhưng phần lớn thời gian đợt này tôi giành cho hai nội dung lý thuyết có nhiều hứng thú hơn: (i)Phân tích các quá trình nhiệt và nhiệt động đi kèm các hiện tượng sinh hóa để áp dụng cho công nghiệp công nghệ sinh học, và (ii) Tối ưu hóa sử dụng năng lượng trong các quá trình sản xuất công nghiệp. Vấn đề thứ nhất suýt đưa tôi đi lạc đề, vì từ nhỏ tôi mê cái thứ tương tự như Phỏng sinh học (Bionique), suy diễn ra từ chỗ: quá trình xảy ra trong tự nhiên đã được chọn lọc và luôn là tối ưu, mà tôi tìm đọc đủ loại. Không ngờ càng làm càng khó, đọc nhiều, phân tích nhiệt động cũng không ít mà như đi vào bụi rậm. May mà Giáo sư G. Kimenov, thầy hướng dẫn “gỡ rối” cho tôi và cho rằng đã vừa đủ có ích để quay lại với thực tế - với nội dung thứ hai về Tối ưu hóa sử dụng năng lượng trong công nghiệp thực phẩm. Thầy tôi cung cấp cho tôi một số bài báo cập nhật đến lúc đó cùng các tài liệu chuyên môn liên quan, Các giải pháp kỹ thuật, các mô hình toán thời gian đó lúc nào cũng như nhảy múa trước mắt tôi. Cuối cùng tôi chọn một phương pháp, được gọi là Pinch để khởi đầu công việc. Bài báo The Pinch Design Method for Heat Exchanger Network của B. Linnhoff và E. Hinmarsh được tôi cày kỹ cùng với một số tài liệu tham khảo khác liên quan, cuối cùng tôi áp dụng thử để đánh giá sự hợp lý về năng lượng cho sơ đồ năng lượng của một nhà máy đường điển hình ở nước Bun, tìm ra khả năng cải tiến để tiết kiệm, nhưng cũng đồng thời đề xuất việc thiết kế năng lượng cho nhà máy đường mới theo hướng tối ưu dựa vào Pinch. Gáo sư G. Kimenov thích thực sự việc tôi đã làm và trong báo cáo tổng kết đợt thực tập một năm tại trường của tôi ông đánh giá: “Kết luận lại, tôi cho rằng, Đợt tu nghiệp đã thành công và kiến nghị công việc theo hướng này cần tiếp tục tại Việt Nam nhằm xây dựng và áp dụng các hệ thống nhiệt tiết kiệm năng lượng cho các nhà máy, các kết quả khoa học nhận được sẽ được phổ biến rộng ra và được sử dụng viết luận văn Tiến sĩ Khoa học.”
Thật tiếc, tôi không làm chuyên sâu khoa học được như ông thầy gợi ý vì những công việc quản lý và hành chính của tôi sau khi về nước cũng đúng lúc rẽ sang một con đường khác, một hoài bão khác chi phối trí tuệ của tôi, làm tôi xa dần “nghiệp khoa học”. Đầu những năm 1990 cũng đánh dấu sự đổi thay thế giới với sự tan rã của phe Xã hội chủ nghĩa, chia xa hai nước Việt Bun về ý thức hệ, Việt Nam đi sâu vào đổi mới và bước vào một cuộc hội nhập rộng lớn. Và thực sự ta đã có những thành công lớn trong đổi mới và hội nhập này. Ngành thủy sản cũng có đóng góp không nhỏ vào sự thành công ấy.
Với tôi, hai lần suy nghĩ lựa chọn trên thật sự là nung nấu. Tuy ý muốn đi theo sức hút của đam mê khoa học bất thành, nhưng tri thức khoa học mà tôi có được như kể trên đã giúp ích nhiều cho bản thân trong tư duy công việc, dù đó là công việc quản lý như tôi đã trải qua những năm tháng sau này. Trong một số bài viết khác tôi đề cập đến mối liên hệ đó.
Tôi xin dừng mảng tự thuật này ở đây. Nó cũng khá bao quát nhưng tôi vẫn thấy thiếu thiếu một điều gì đó. Mười tám năm tôi công tác ở trường Thủy sản trải ra những thời đoạn ngắn dài, đi qua không ít thời điểm. Đó thực sự là những khoảng thời gian đáng nhớ, những thời điểm mà dường như qua đó là con đường số mệnh tôi đã qua. Tuy nhiên, mỗi lúc, mỗi giai đoạn, khi nghĩ và hồi tưởng tôi lại mường tượng ra những nét mặt, những cử chỉ thân quen, những sự ân cần trong hành động, cảm thông trong lời nói của đồng nghiệp, đồng chí, bè bạn; những tấm gương mà tôi học được và noi theo dù hiển hiện hay trầm lắng. Tôi tri ân không ít người và khâm phục một số người trong đó. Họ ảnh hưởng nhiều đến tôi, giúp hình thành lên cái chân, thiện, mỹ trong nhân cách con người tôi.
Xin cảm ơn tất cả những con người như thế.
Hà Nội ngày 15 táng 11 năm 2018
(*) Anh Phan Thế Phương được truy tặng danh hiệu Anh Hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Ở xã Quảng Công gần Huế có trường mang tên anh. Có nơi người dân lập miếu thờ anh.
(**) Anh Vũ Văn Dướng sau làm thư ký, trợ lý Bộ Trưởng Nguyễn Tấn Trịnh,một cán bộ cần mẫn, một người bạn tốt gắn bó cả sự nghiệp với ngành thuy sản. Anh nghỉ hưu về Thanh Ba, Phú Thọ và đã mất cách đây gần mười năm.
Tạ Quang Ngọc - Lớp Chế biến khóa 4 – Khoa Thủy sản trực thuộc Học viện Nông Lâm (Nay là Trường Đại học Nha Trang)